Đứng tên đăng ký quyền sử dụng đất
Hỏi: Năm 2000, vợ chồng tôi có mua một mảnh đất. Khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ có mình chồng tôi đứng tên.
Xin quý báo cho biết, việc đứng tên như vậy có ảnh hưởng gì tới việc phân chia tài sản của vợ chồng tôi sau này? Tôi có thể bổ sung tên mình vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không? Nguyễn Thị Mai
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng như sau: Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm: Nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 điều này được thực hiện kể từ ngày nghị định này có hiệu lực.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đăng ký quyền sở hữu trước ngày nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.
Căn cứ vào các quy định này thì mảnh đất mà bà cùng chồng mua năm 2000 (trong thời kỳ hôn nhân) sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng cho dù chỉ có chồng bà đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu bà muốn bổ sung tên mình vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể làm thủ tục đề nghị Văn phòng Đăng ký nhà đất cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sử dụng đất mang tên bà và chồng.
Trả lời
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng như sau: Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm: Nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 điều này được thực hiện kể từ ngày nghị định này có hiệu lực.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đăng ký quyền sở hữu trước ngày nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.
Căn cứ vào các quy định này thì mảnh đất mà bà cùng chồng mua năm 2000 (trong thời kỳ hôn nhân) sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng cho dù chỉ có chồng bà đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu bà muốn bổ sung tên mình vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể làm thủ tục đề nghị Văn phòng Đăng ký nhà đất cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sử dụng đất mang tên bà và chồng.
Luật sư Vũ Thái Hà
(Theo HNM)
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet