Tiếp quản đất hương hỏa sao để không tranh chấp?
Hỏi: Ông bà cố tôi phân chia cho ông bà nội tôi đất ở và đất vườn năm 1956 (có ủy ban hành chính xã xác nhận năm 1956). Ông bà nội tôi mất lần lượt vào năm 1968, 1988, anh trai của ba tôi (bác Hai) mất năm 1988.
Đến năm 1992, vợ bác Hai cùng ba tôi và các cô chú họp giao một nửa tài sản trên cho ba tôi (lo cúng giỗ cho ông bà cố), một nửa cho người cô thứ tư (lo thờ cúng ông bà nội).
Biên bản giao tài sản và trách nhiệm này được HTXNN và UBND xã xác nhận. Tại cuộc họp này có đầy đủ anh chị em của ba tôi. Biên bản này nói rõ: Khi nào cô Tư mất, toàn bộ tài sản và việc thờ cúng giao cho gia đình người thứ ba (ba của tôi).
Năm 2000 ba tôi mất, gia đình tôi vẫn lo cúng ông bà đàng hoàng. Năm 2008 cô Tư tôi mất. Nay gia đình tôi muốn tiếp quản toàn bộ đất đai của ông bà tôi thì phải làm gì, ở đâu? Con nuôi (duy nhất) của cô Tư tôi có được sử dụng một nửa số đất này? Con trai của bác Hai tôi (xuất cảnh năm 1990, đã có quốc tịch Úc) muốn tiếp quản toàn bộ tài sản này có được không?
Theo pháp luật thì gia đình tôi được quyền gì? Nếu muốn tiếp quản toàn bộ đất đai của ông bà thì gia đình tôi phải làm gì? Chân thành cảm ơn.
nghia nguyen
- Trả lời:
Thông tin bạn cung cấp không nêu rõ đất ở và đất vườn của ông bà cố bạn đến nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa? Nếu có thì ai là người đứng tên trên giấy chứng nhận nên không thể có một câu trả lời chính xác cho bạn được.
Trong trường hợp số đất ở và đất vườn nêu trên chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai thì cách tốt nhất là các thành viên trong dòng họ của bạn tự thỏa thuận phân chia với nhau. Nếu không thỏa thuận được thì chỉ có thể giải quyết được bằng cách đưa vụ việc lên UBND cấp huyện nơi có đất để nhờ giải quyết.
Lưu ý với bạn là trước khi đưa vụ việc lên UBND cấp huyện thì bắt buộc phải thông qua hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất.
Khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai quy định như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành thì vẫn chưa cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
LS NGUYỄN VĂN HẬU
(Theo Tuổi trẻ)
- Quý khách tham khảo thêm các chuyên mục khác của X HOME:
CHIA SẺ & BÌNH LUẬN
Tweet